Toàn cảnh Công ty Xi măng Hoàng Thạch (nhìn từ sông Kinh Thầy)
Đặc biệt, Công ty liên tục đầu tư trang thiết bị hiện đại để cải thiện môi trường lao động, nhất là công đoạn nghiền nguyên liệu, xi măng, than và lò nung là những nơi phát sinh lượng bụi rất lớn.
Năm 2008, Công ty là một trong 40 doanh nghiệp được Bộ Tài nguyên và Môi trường trao tặng Cúp Vàng vì sự nghiệp bảo vệ môi trường (BVMT). Đặc biệt, tháng 6/2009, Công ty vinh dự được Bộ TN&MT trao Giải thưởng Môi trường Việt Nam 2009.
Đầu tư chiều sâu nhằm cải thiện môi trường
Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của thương hiệu XMHT là duy trì tốt hệ thống Quản lý môi trường đã được tổ chức QUACERT Việt Nam và TUVNORRD CERT (CHLB Đức) cấp chứng chỉ hệ thống Quản lý môi trường phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001: 2004.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác BVMT, Công ty không ngừng đầu tư trang thiết bị xử lý môi trường, áp dụng khoa học - kỹ thuật cải thiện môi trường lao động và gắn sản xuất với BVMT. Để đạt mục tiêu sản xuất phải giảm thiểu tối đa các tác động xấu đến môi trường, ngoài ưu thế lắp đặt thiết bị công nghệ tiên tiến của thế giới của hãng EL.Smidth (Đan Mạch) chuyên sản xuất loại xi măng PC30, PCB30, PC40, PCB40 và Clinker chất lượng cao, Công ty đầu tư chiều sâu, ưu tiên mua sắm, thay thế các thiết bị chuyên dụng xử lý các nguồn gây ô nhiễm như bụi thải, khí thải, giảm tiếng ồn, quản lý chất thải rắn và tái sử dụng nước thải... Tháng 8/2005, Công ty là doanh nghiệp đầu tiên trong cả nước xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001: 2004.
Đầu tư cho sản xuất sạch hơn, Công ty trang bị tới 8 bộ lọc bụi tĩnh điện cho cả 2 dây chuyền, trong đó có 1 bộ lọc lắp đặt ngay tại máng xuất Clinker - xưởng xi măng, hiệu suất của các bộ lọc bụi khi hoạt động đạt tới 99%, nhờ đó lượng bụi phát tán ra môi trường không đáng kể. Còn ở các vị trí đập đá vôi, đá sét, thạch cao, nghiền xi măng, đóng bao, két chứa, các điểm chuyển hướng băng tải... đều được lắp đặt tổng số 101 lọc bụi tay áo với hiệu suất 98 - 99%.
Công ty tuần hoàn tái sử dụng và không thải ra môi trường nước thải làm mát của 3 dây chuyền sản xuất. Nước thải rửa xe, máy được thu gom vào bể lắng, tách cặn và dùng phương pháp tuyển nổi, sục khí xử lý. Riêng tại xưởng đóng bao, toàn bộ những lọc bụi cũ đã được cải tạo và lắp đặt thêm 3 bộ lọc bụi tay áo với công suất lớn, bổ sung lưu lượng hút tại khu vực đóng bao HT1, nên qua số liệu quan trắc môi trường, nồng độ bụi tại đây đều nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép. Riêng việc xử lý khí thải được áp dụng phương pháp pha loãng và khuyếch tán vào không khí thông qua 2 ống khói cao từ 87 - 120 m. Theo số liệu quan trắc các vị trí cách nhà máy từ 500 - 3.000 m, nồng độ SO2, NO2, CO đều nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép. Ngoài ra, Công ty còn cải tiến việc sử dụng nhiên liệu đốt lò từ 85% than và 15% dầu chuyển sang dùng 100% than, vừa tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế vừa giảm đáng kể lượng khí CO sinh ra trong quá trình đốt dầu.
Không chỉ tạo cảnh quan xanh, sạch tại các khu nhà xưởng, Công ty còn chú trọng đến BVMT ở các khu vực mỏ, cảng của mình bằng cách dùng thuốc nổ ít độc hại tới môi trường; giảm tiếng ồn trong khai thác mỏ; hàng ngày có xe phun nước, quét dọn làm giảm bụi.
Nâng cao năng suất lao động và ý thức BVMT cho người lao động
Nội quy an toàn - vệ sinh lao động và phòng chống cháy nổ được quán triệt đến từng người trong Công ty. Việc đánh giá, xếp loại được thực hiện thường xuyên và có chế tài thưởng, phạt với mức 1,5 triệu đồng/tháng, coi đó là tiêu chí quan trọng nhất để bình xét thi đua khen thưởng cho mỗi cá nhân và đơn vị hàng năm. Chính sự nghiêm minh của chế tài đã giúp cho gần 3.000 lao động của Công ty coi việc chấp hành an toàn - vệ sinh lao động và BVMT vừa là trách nhiệm và là quyền lợi của họ.
Để nâng cao hiệu quả của công tác BVMT trong lao động sản xuất, Công ty thành lập Đội thu gom rác thải 60 người phân chia đảm nhiệm từng khu vực.
Ban lãnh đạo Công ty đặc biệt chú trọng tới những nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật cũng như việc ứng dụng do đội ngũ cán bộ, lao động trong Công ty đề xuất như: Toàn bộ nước làm mát dây chuyền sản xuất xi măng được thu hồi tái sử dụng (1.200m3/ngày); Tập thể Xưởng lò nung cùng Xưởng cơ khí đã phối hợp thiết kế hệ thống thu nhiệt thừa cho hệ thống sấy than sơ bộ, giúp giảm thiểu lượng nhiệt phát tán ra môi trường, vừa tăng năng suất máy nghiền; hay sáng kiến xử lý triệt để chất thải rắn nguy hại bằng đốt trong lò nung Clinker có nhiệt độ khoảng 1.400oC...
Công ty cũng luôn có các phong trào thi đua, tạo không khí hăng say làm việc, góp phần vào mức tăng trưởng bình quân hàng năm như: Phấn đấu vượt mức kế hoạch, thi đua quản lý giỏi, chạy máy năng suất cao, chất lượng tốt, giảm định mức tiêu hao vật tư, hạ giá thành sản phẩm; Chấp hành kỷ luật lao động, an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh môi trường; Tổ đội lao động xuất sắc, chiến sĩ thi đua và phong trào sáng kiến cải tiến hợp lý hóa sản xuất, trồng cây xanh và các phong trào văn thể... Đặc biệt, phong trào, xây dựng tổ đội lao động xuất sắc, chiến sĩ thi đua và phong trào sáng kiến - cải tiến, hợp lý hóa sản xuất đã được Công ty duy trì nhiều năm và phát triển mạnh cả về chất và lượng. Bình quân mỗi năm, Công ty đều có hơn 60 sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất được công nhận, làm lợi khoảng 2 tỷ đồng/năm.
Bên cạnh đó, Công ty còn làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe, quyền lợi cho người lao động: Duy trì các bữa ăn, chế độ ăn ca bảo đảm chất và lượng; thường xuyên kiểm tra sức khỏe, khám, chữa bệnh, phát hiện sớm bệnh nghề nghiệp để điều trị kịp thời và sắp xếp lao động hợp lý cho từng đối tượng phù hợp với sức khỏe từng người...
Trải qua 30 năm xây dựng và phát triển, Công ty XMHT đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực, được Đảng và Nhà nước; các Bộ, ngành TW, UBND các tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh tặng nhiều huân, huy chương và bằng khen, giấy khen... Năm 2000, Phòng Điều hành Trung tâm và năm 2005, Công ty được trao tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới. Kỷ niệm 30 năm thành lập (4/3/1980 - 4/3/2010), Công ty vinh dự được trao tặng Huân chương độc lập hạng Nhì.
Tâm Đức
Tạp chí môi trường số 7 năm 2010